Bản dịch tiếng Việt được thực hiện bởi Bùi Thị Quỳnh Anh, Nguyễn Thị Thu Hiên và Lê Hoàng Thế Huy.
Tôi rất hân hạnh và vinh dự được giới thiệu bản dịch đầu tiên của cuốn “Năm ca phân tâm” của Sigmund Freud sang tiếng Việt.
Phân tâm học đã có lịch sử hơn 100 năm. Rất nhiều thuật ngữ và quan niệm mới đã được thêm vào những công trình đầu tiên của Freud. Sự phát triển này không chỉ diễn ra ở Vienna (Áo), mà còn ở khắp mọi nơi trên thế giới. Kết quả là vô số ý tưởng mới được hình thành và ngày càng mở rộng trong cộng đồng phân tâm học quốc tế. Bất chấp sự tồn tại của Tổ chức Phân tâm Quốc tế (IPA) với một chương trình khoa học phong phú, rất nhiều cuộc gặp gỡ và trao đổi quan trọng (dù phần nào bị cản trở trong hai năm vừa qua do đại dịch Covid-19), ngôn ngữ phân tâm vẫn chưa được thống nhất như chúng ta hằng mong đợi.
Một sinh viên bước vào lĩnh vực phân tâm học ngày nay có nhiệm vụ lớn hơn nhiều so với những thế hệ trước. Họ phải học hỏi, trau dồi rất nhiều điều, nhất là phải trao đổi và thảo luận nhiều hơn với những đồng nghiệp đến từ các quốc gia khác.
Quá trình tham gia xây dựng bản dịch chưa từng được xuất bản sang tiếng Việt của quyển “Năm ca phân tâm” của Freud được ghi dấu bằng một sự nhiệt tình to lớn, nhưng cũng có không ít những hụt hẫng nhất định.
Tác phẩm này được PUF xuất bản năm 1954, được xây dựng lại từ bản dịch năm 1935 (của Denoël và Steele). Bản dịch mà chúng tôi sử dụng ở đây là bản dịch ra tiếng Pháp do Marie Bonaparte et Lowenstein chuyển ngữ, bao gồm năm ca.
- Dora: Một ca hysteria
- Bé Hans: Một ca ám sợ
- Người chuột: Nhiễu tâm ám ảnh
- Chủ tịch Schreber: Hoang tưởng có cấu trúc
- Người sói: Nhiễu tâm trẻ em.
Bốn ca đầu tiên đã được xuất bản lần lượt trong Tạp chí phân tâm học Pháp từ năm 1928 đến năm 1932.
Năm 1924, Freud đã tập hợp các ca này lại trong quyển VIII bộ Gesammelte Schriften do Ernest Jones chủ biên. Sau đó, năm 1925, các ca được Alix et James Strachey dịch sang tiếng Anh trong quyển III bộ Freud’s Collected Papers tại Hogarth Press.
- Được xuất bản năm 1905, ca “Dora” là một trong những ca phân tâm lớn do Freud thực hiện. Đây là ca lâm sàng đầu tiên được trình bày đầy đủ, tuy nhiên đây lại là một ca thất bại (Dora ngưng trị liệu sau 11 tuần). Tác phẩm này cho chúng ta thấy một Freud giữa những dòng suy tư khi phải đối mặt với những bất định và vô số giới hạn mà trường hợp này đặt ra cho ông. Khi đang trong quá trình khám phá ra phương pháp phân tâm, Freud đã bị lạc hướng trong đồng tính và đối mặt vào những chuyển cảm đa dạng của Dora, điều mà sau đó ông đã lý thuyết hoá.
Trong quá trình chữa bệnh, Freud thu thập những dữ liệu đứt rời rạc từ chính Dora, một câu chuyện với đầy lỗ hổng, mịt mờ và bí ẩn (cũng giống như trong tất cả mọi ca hysteria khác). Ông cố gắng lấp đầy chúng bằng những dữ liệu do người thân của Dora cung cấp (đặc biệt là cha của cô). Ngày nay, một tình huống như vậy sẽ gây ra tranh luận. Hai giấc mơ trong quá trình chữa bệnh của Dora cho phép Freud đào sâu về khoa học giấc mơ của mình.
Trong câu chuyện được xây dựng một cách đẹp đẽ này, Freud làm sáng tỏ thêm những sai lầm của mình để thúc đẩy và xây dựng những nền tảng cho khoa học phân tâm mới.
- Xuất bản lần đầu năm 1909, ca bé Hans đã đồng hành với công việc của Freud trong nhiều năm…
Ngay từ cuốn Ba tiểu luận về tính dục (1905), Freud đã chứng minh rằng trẻ em là một kẻ “lệch lạc đa hình” và khẳng định sự tồn tại của tính dục ở trẻ em. Đời sống tâm trí của trẻ bị chi phối bởi nhiều xu hướng xung năng chưa bị kìm nén. Khi lớn lên, trẻ mới dần phát triển khả năng kiểm duyệt đạo đức để kiểm soát được những xung năng ấy. Với ca Hans, ca trị liệu trẻ em đầu tiên, Freud đưa ra bằng chứng thật sống động về đời sống tính dục của trẻ.
Thực tế, Freud chỉ gặp “cậu bé vui tính này” một lần duy nhất trong quá trình phân tích. Chính người cha của trẻ đã đảm nhận việc ghi chép cẩn thận hằng ngày dưới sự giám sát của Freud, người mà đứa trẻ đã xác định trong chuyển cảm là “Chúa” – “Giáo sư Freud”.
- Ca người chuột xuất bản năm 1909. Đây là một ca thành công của Freud.
Ernst Lanzer (1878 -1914) bắt đầu điều trị với Freud năm 29 tuổi. Quá trình trị liệu kéo dài 1 năm. Freud công bố tác phẩm của mình năm 1909, khá nhanh sau khi kết thúc một cuộc trị liệu thành công vang dội. Thật không may, chúng ta không thể biết sự tiếp diễn của căn bệnh sau khi kết thúc trị liệu vì năm 1914, Lanzer nhập ngũ và đã bị giết khi Chiến tranh Thế giới thứ I nổ ra.
Với tiêu đề “một ca nhiễu tâm ám ảnh”, tác phẩm này vẫn còn giữ nguyên giá trị sau 100 năm. Ca này giúp cho chúng ta hiểu thế nào là nhiễu tâm ám ảnh, cách thức trị liệu và làm thế nào để quá trình trị liệu thành công.
Đối với Freud, tính dục là nguyên nhân gây ra nhiễu tâm ám ảnh. Nhiễu tâm ám ảnh và hysteria có cùng một cuộc chiến: phòng vệ nguyên phát chống lại những ý tưởng tính dục khoái lạc bị dồn nén. Tuy nhiên, thay vì phần cảm xúc tách rời khỏi biểu tượng dồn nén được “chuyển dạng cơ thể” trong hysteria, cảm xúc lại bị cố định trong suy nghĩ và nhảy từ ý tưởng này sang ý tưởng khác trong nhiễu tâm ám ảnh.
Hơn nữa, đối với Người Chuột, chuyển cảm là tích cực ngay từ đầu và được duy trì trong suốt quá trình điều trị. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm chữa. Ở đây, vai trò của phức cảm Oedipus vẫn nổi trội và người cha thực sự là một trở ngại đối với thoả mãn tính dục.
- Cùng với ca Chủ tịch Schreber, xuất bản lần đầu năm 1911, Freud đã đưa một suy tư phân tâm học vào các cuộc tranh luận trong ngành tâm thần về những rối loạn loạn thần (Dementia paranoides) giữa Bleuler (tâm thần phân liệt) và Kraeplin (mất trí sớm). Để làm được điều này, ông đã tiến hành phân tích cuốn Hồi ký của Daniel Paul Schreber, Tiến sĩ Luật, cựu chủ tịch Tòa thượng thẩm bang Sachsen, người đã viết tài liệu này để chứng minh rằng ông không bị điên. Cuốn Hồi ký ấy có tên đầy đủ là “Hồi ký của một bệnh nhân tâm thần”, xuất bản năm 1903. Bị ám ảnh bởi suy nghĩ về tận thế, Schreber cảm thấy bản thân bị bức hại bởi bác sĩ riêng của mình (bác sĩ Flechsig) và sau đó là Thượng đế. Ông tuyên bố rằng sứ mệnh của mình là phải biến đổi thành nữ để cứu rỗi thế giới. Tập trung vào hoang tưởng cấu trúc, hình tượng người cha và sự đồng tính, Freud cũng đã lần đầu tiên đề cập đến hoang tưởng được yêu, hội chứng nghi bệnh và tính ái kỷ trong tác phẩm này. Chính điều này đã truyền cảm hứng cho Jacques Lacan về khái niệm “cấu trúc” trong loạn tâm.
- Người sói
Đây là ca phân tích dài nhất (4 năm rưỡi với tần suất 1 phiên/ ngày) và khó nhất mà Freud từng thực hiện, nhưng cũng là một trong những ca mang đến chất liệu phong phú nhất cho lý thuyết phân tâm. Sergeï Pankejeff là một nhân vật huyền thoại của phân tâm học. Hình tượng mơ hồ về bệnh nhân này vẫn tiếp tục kých thích những nghiên cứu phân tâm cho đến ngày nay.
Tóm lại: Năm ca phân tâm là một tượng đài vững chắc trong mọi chương trình đào tạo tâm lý học lâm sàng, được dùng để trao đổi, đối thoại với các đồng nghiệp ở mọi quốc gia. Nhưng trước tiên hãy đọc cuốn sách này với sự quan tâm về lâm sàng, sau đó là lịch sử và hãy luôn cẩn trọng và với óc phê phán.
Thay mặt ban dịch thuật và biên tập
Brigitte Moise-Durand
Bác sĩ tâm thần, phân tâm gia
Nguyễn Thị Thu Hiên và Lê Hoàng Thế Huy
dịch lời tựa sang tiếng Việt